Lần đầu tiên nhìn thấy hai khẩu cao xạ 37 ly hạ nòng bắn bộ binh, uy lực khủng khiếp thật, những viên đạn bay đi thẳng căng, đỏ lừ rồi cháy rực phía mục tiêu, nhìn đã thật.
Lật cánh
Sau khi Phnom Pênh được giải phóng, phương án tác chiến thay đổi, ngay chiều 07/ 01/1979, Sư đoàn nhận lệnh trở lại bờ đông sông Mê Công, cùng Quân đoàn 3, giải phóng Kongpong Cham, rồi tiến theo hướng Quốc lộ 6, qua Kongpong Thom, ngược Seam Riep lên Battamboong.
Riêng Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 174 do Trung đoàn Phó Phạm Văn Minh chỉ huy được lệnh không trở lại cùng Sư đoàn mà cơ động bằng 4 xe vận tải quân sự, được tăng cường 4 xe thiết giáp M.113 theo bờ tây sông Mê Công, cắt qua núi Chi, lên đánh chiếm Tăng Cra Xăng, hợp điểm cùng đội hình Sư đoàn tại Công Pông Thom.
Đưa một Sư đoàn, với hàng vạn quân, cùng cơ man nào là vũ khí trang bị qua một dòng sông lớn như sông Mê Công là cả một kỳ tích, giờ lại phải đưa đội hình lớn như thế lộn trở lại bên này, quả thật không đơn giản.
Tác giả Nguyễn Vũ Điền - Nhập ngũ năm 1978 khi đang học tại trường ĐHTH, Hà Nội. Nguyên chiến sĩ D6, E174, Sư đoàn 5, Mặt trận 479; nguyên giáo viên Trường Sĩ quan Tăng-Thiết giáp; nguyên Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Sơn La.
Nhưng, khi nhận lệnh thì không một ai chần chừ bởi diễn biến chiến trường xảy ra trong những ngày qua quá nhanh, vượt quá sức tưởng tượng của bất kỳ ai đã từng tham chiến.
Phnom Pênh đã giải phóng rồi, khí thế chiến thắng làm cho ai cũng cảm thấy phải khẩn trương được vào trận, giải phóng những thành phố, thị xã và những vùng đất còn lại.
Anh em công binh Quân Khu và Sư đoàn vô cùng phấn khởi, không quản ngày đêm, lại ngược xuôi đưa hàng trăm lượt thuyền máy qua sông. Còn lính tráng thì cảm thấy vui, phấn khích và quên đi mọi gian lao vất vả.
Hôm ngược trở lại bên này sông, chúng tôi không phải đi đêm nữa mà lên thuyền giữa ban ngày. Hàng chục chiếc thuyền lướt sóng giữa dòng Mê Công như đi du lịch chứ không có cảm giác căng thẳng như hôm trước.
Dòng sông mênh mang, những tia nước bay lên hắt vào mặt, mát rượi. Ngồi trên thuyền, tôi vợt nước lên rửa mặt, những giọt nước trong xanh thấm vào da thịt làm cho tôi thấy vô cùng sảng khoái.
Sang đến bờ đông thì xe của Sư đoàn đã chờ sẵn. Cả đoàn xe hàng trăm chiếc, nối đuôi nhau chở đầy ắp lính ngược về hướng đông. Thấp thoáng ven đường là những rừng cao su bạt ngàn lùi dần về phía sau.
Các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường K.
Chỉ mấy ngày trước thôi, bộ đội ta đã phải hy sinh, tổn thất rất nhiều khi phải giằng giật với lính Pốt từng mét đất trong những cánh rừng này, giờ đứng trên xe quay ngược lại những địa danh quen thuộc, có cảm giác như chiến tranh đã kết thúc và chúng tôi đang trở về đất mẹ, trở về Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Đến ngã ba Senoul, đoàn xe không đi thẳng mà rẽ phải và tiếp tục đi trong những rừng cao su bất tận. Ngược hướng với đoàn xe chở bộ đội Việt Nam vẫn là dòng người đen đúa, nhếch nhác, những chiếc xe bò đôi kẽo kẹt lê lết trên đường.
Người dân Campuchia đang trở về quê sau bao năm phải trốn lủi để thoát khỏi bàn tay của bọn đao phủ Pôn Pốt. Những nụ cười rạng rỡ trên những khuôn mặt hốc hác, những đôi mắt trũng sâu nhưng chan chứa niềm vui, những bàn tay gầy guộc ríu rít giơ lên vẫy chào bộ đội khiến chúng tôi vô cùng cảm động.
Chiều muộn, chúng tôi về đến bờ đông Kongpong Chàm. Cả đoàn xe dài hàng mấy km dừng lại chờ đến lượt qua phà. Rất nhiều đơn vị cũng phải dừng lại chờ đợi như chúng tôi. Trong cánh rừng cao su ven đường, võng mắc dày đặc.
Lính tráng vừa trải qua những ngày hành quân vất vả và những trận đánh triền miên, giờ được nghỉ là tranh thủ ngủ, lấy sức để chuẩn bị cho những ngày tác chiến sắp tới.
Bên kia sông là thị xã Kongpong Cham mới được giải phóng. Nhà cửa, phố xá, và quang cảnh bộ đội đi lại tấp nập khiến những thằng lính không khỏi tò mò, muốn được sang ngay để biết cái thị xã này như thế nào.
Nhưng quân đông như trẩy hội, sang đó rồi lạc, biết đâu mà tìm. Hơn nữa, kỷ luật chiến trường rất nghiêm, chớ có láo nháo, đành vạ vật chờ đợi.
Tối vẫn chưa đến lượt sang sông. Chúng tôi ăn uống qua quýt bằng cơm sấy mang theo, rồi ngủ vạ vật ngay trên đường nhựa, cạnh những chiếc xe vận tải.
Chẳng tìm được chỗ nào mắc võng nên tôi đành mở ba lô, lấy võng trải ngay xuống nền đường nhựa, phía sau một chiếc xe tải, rồi gối đầu lên ba lô, súng AK đặt bên sườn và thiếp đi, mặc tiếng súng, tiếng pháo vẫn nổ ì ầm xa xa phía bên kia sông...
Các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia
Những cuộc gặp chớp nhoáng
Sáng hôm sau, đơn vị xuống phà sớm. Vẫn là dòng Mê Công hôm nào, nhưng đây là hạ nguồn, thuộc địa phận tỉnh Kongpong Cham.
Thay vì sang sông trên những chiếc thuyền nhỏ, lắp máy cole như bữa trước, lần này bộ đội sang sông bằng phà. Những chiếc phà lớn chở đầy ắp bộ đội với vũ khí, trang bị, xe máy lũ lượt qua bờ.
Ngay sát mép nước bên bờ tây, những xác người chết bị sóng đánh dạt vào bờ nổi dập dềnh, những khuôn mặt biến dạng, ruồi nhặng bu đen, mùi xác thối ngâm nước lâu ngày bốc lên khăm khẳm.
Trước khi rút chạy, bọn lính Polpot đã bắn những người dân sống bằng nghề chài lưới ven sông để cướp thuyền của họ rút chạy trước khi ta đánh chiếm bến phà này.
Cạnh bến phà, ngay bên phải đường dẫn xuống phà có một kho thóc lớn, dễ đến hàng ngàn tấn bị bọn Pốt đốt trước khi rút chạy đang cháy dở, khói bốc lên cao ngút.
Sau này, khi nhắc đến bến phà Kongpong Cham, không một người lính nào qua đây trong những ngày này không nhớ đến hình ảnh kho thóc đang cháy, bởi nó cháy rất lâu, cứ nghi ngút như vậy hàng tháng trời mới hết.
Bên này sông còn nhiều bộ đội hơn bờ bên kia. Cơ man là súng pháo, cơ man là xe tăng, xe thiết giáp, cơ man là người. Những tiếng gọi í ới, những bước chân hối hả đi về các hướng, những chiếc xe tăng T-54, T-59, xe thiết giáp M.113 phủ đầy bụi chiến trường, trông thật oai phong, hùng dũng đỗ dọc các con đường trên bến.
Có những chiếc đang nổ máy, thỉnh thoảng lại tăng ga, phả ra những làn khói đen kịt ở phía đuôi. Những đoàn xe chở vũ khí, súng đạn và lương thực phủ bạt đỗ thành hàng dài khắp các con đường đầu thị xã Kongpong Cham.
Quân đi như nêm. Lính Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Quân khu 7, Bộ đội biên phòng, Thanh niên Xung phong...người nói giọng Nam, kẻ nói tiếng Bắc.
Quần áo mỗi đơn vị một màu, những miếng vải đeo trên vai áo ký hiệu đơn vị mỗi người một kiểu, người màu vàng, kẻ màu đỏ…tất cả trộn vào nhau, tất cả đều hối hả mang vác súng ống, vũ khí đi theo nhiều hướng, cứ đan chéo vào nhau, tấp nập. Khói bụi, âm thanh hỗn tạp, không thể phân biệt được ai ở đâu, thuộc đơn vị nào.
Thấy một chàng lính đeo miếng vài màu vàng trên vai áo, đi cùng chiều, tôi hỏi với sang:
- Cậu ở đơn vị nào?
Một giọng Nghệ An đặc sệt trả lời.
- Sư 10.
- Sư 10 thuộc quân đoàn nào? Tôi hỏi tiếp.
- Quân đoàn 3 ông ơi. Mà ông ở đơn vị nào?
- Tôi Sư 5, Quân khu 7.
Chỉ thế thôi, rồi hai thằng bắt tay nhau, đi về hai hướng. Chiến tranh lôi những thằng thanh niên trai tráng như chúng tôi vào trận, và rồi chiến tranh đẩy chúng tôi đi theo các hướng khác nhau. Mãi mãi tôi không biết cậu ta sau này đi đâu, về đâu, số phận ra sao. Và cậu ta cũng chẳng hiểu những năm tháng tiếp theo của tôi sẽ như thế nào.
Tác giả Nguyễn Vũ Điền về thăm lại chiến trường xưa.
Đập tan những cái chốt phòng ngự của lính Polpot như lấy gạch đập ruồi
Chẳng được vào để biết đường ngang, ngõ dọc của thị xã Kongpong Cham như thế nào, nghe mệnh lệnh tập hợp, chúng tôi lại lục tục lên xe tiếp tục hành trình.
Đội hình hành quân của toàn Sư đoàn, với xe tăng, xe thiết giáp của Trung đoàn 26 dẫn đầu hành tiến theo Quốc lộ 6. Tiếng động cơ của cả đoàn xe trộn lẫn tiếng gió rít bên tai ào ào, trên đầu trời vẫn xanh vời vợi, không một gợn mây.
Qua thị xã Kongpong Thom, đoàn xe tiếp tục hướng lên Seam Riep. Thỉnh thoảng, đoàn xe lại dừng lại, bộ đội xuống xe tìm chỗ ẩn nấp vì phía trước gặp địch. Tuy nhiên, đó chỉ là những toán địch lẻ tẻ, nổ vài phát súng về phía ta rồi bỏ chạy vào rừng.
Các đơn vị đi đầu vừa hành tiến, vừa nổ súng thị uy để bọn chúng khiếp sợ chứ biết chúng chạy phương nào mà bắn.
Tuy nhiên, từ thị xã Seam Riep lên hướng Sisophon thì những ổ đề kháng của địch nhiều hơn. Trong lúc rút chạy, Pốt để lại những toán khoảng vài ba chục tên, chốt giữ những khu vực trọng yếu nhằm quấy rối, làm chậm tốc độ tiến công của ta.
Với lực lượng đi đầu là xe tăng và xe thiết giáp thì việc đập tan những cái chốt này giống như lấy gạch đập ruồi. Chúng tôi ngồi xuống vệ đường, hút thuốc lá, nhìn bộ phận đi đầu nổ súng, xem hai bên bắn nhau như đi xem kịch.
Tiếng đạn pháo 100 ly của xe tăng T-54, tiếng đạn cối, tiếng ĐKZ và súng 12,7 ly, đại liên PKT của các phân đội thiết giáp và bộ binh đi đầu bắn áp đảo. Chỉ đùng đoàng một lát là các điểm chốt của chúng nhanh chóng tan rã, đoàn xe lại tiếp tục lên đường.
Ngày tiếp theo, khi đầu đội hình hành quân tiếp cận cầu Sisophon, một ổ đề kháng của địch từ bên kia cầu dựa vào công sự được đắp nổi ngay ven đường nổ súng ngăn chặn quyết liệt.
Tiểu đoàn xe tăng dẫn đầu nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Những chiếc xe tăng rời mặt lộ, lợi dụng các cánh rừng ven đường, hình thành thế thế gọng kìm, tiến công địch từ bên sườn.
Lực lượng bộ binh chiếm lĩnh hai bên mặt đường nổ súng quyết liệt. Tôi đã thấy súng 12,7 ly bắn bộ binh khá nhiều, nhưng lần đầu tiên nhìn thấy hai khẩu cao xạ 37 ly hạ nòng bắn bộ binh, uy lực khủng khiếp thật, cứ " ùng ùng, ùng ùng...", viên đạn bay đi thẳng căng, đỏ lừ rồi cháy rực phía mục tiêu, nhìn đã thật.
Trận chiến chỉ diễn ra chừng mươi phút. Bọn địch bị tiêu diệt gần hết. Mấy thằng địch chết, xác cháy xém với đủ tư thế trên mặt chiến hào, vài ba tên sống sót biến vào rừng. Đoàn quân lại tiếp tục tiến lên.
Quân tình nguyện Việt Nam chuẩn bị rút quân khỏi Campuchia. Ảnh: AFP
***
Phải mất đúng 5 ngày kể từ hôm rời Kratie, ngày 13/01/1979, Sư đoàn mới chiếm được Sisophon, một thị xã lớn và có vị trí hết sức quan trọng về quân sự ở Tây Bắc Campuchia.
Từ Sisophon, theo Quốc lộ số 5, xuôi về hướng Nam là thị xã Battamboong rồi nối với Pailin bằng Quốc lộ 57. Từ Sisophon, ngược lên phía Bắc, theo Quốc lộ 56 là đến Svai Chek, Thmo' Puok, hai thị trấn nhỏ chạy dọc biên giới phía Tây Bắc Campuchia.
Từ Sisophon, đi tiếp Quốc lộ số 5 về hường Tây khoảng 50 km là đến cửa khẩu Pôi Pét, Cửa khẩu Quốc tế lớn nhất nối Campuchia với Thái lan.
Tôi muốn nhấn mạnh đến vị trí của Sisophon như vậy là vì từ tháng giêng năm 1979 đến khi Sư đoàn 5 hoàn thành nhiệm vụ, rút quân về nước năm 1989, nơi đây chính là đại bản doanh và cũng là hướng tác chiến chính của Sư đoàn.
Những địa danh được nhắc đến quanh Sisophon cũng là những địa danh mang đầy kỷ niệm của những người lính Sư Đoàn 5 trong suốt những năm tháng sống và chiến đấu tại chiến trường Campuchia đầy hy sinh và gian khổ này.
Theo sự phân công của trung đoàn, các đơn vị triển khai đội hình phòng ngự, sẵn sàng đánh địch phản kích. Tiểu đoàn 6 được giao án ngữ phía tây thị trấn, ngay trên đường tàu nối Battamboong với Pôi Pét, cửa khẩu quốc tế Campuchia - Thái Lan.
Cuộc hành quân lật cánh của Sư đoàn đã hoàn thành một cách suôn sẻ, nhưng những cuộc chiến đấu gian nan, vất vả, hy sinh của chúng tôi mới chuẩn bị bắt đầu.